41- Vườn quốc gia Bắc Cascades
Địa điểm: Bang Washington
Thành lập: 2 tháng 10 năm 1968
Diện tích: 504.780,94 mẫu Anh (2.042,8 km2)
Vườn quốc gia Bắc Cascades bao gồm hai phần hợp thành là khu bảo tồn quốc gia Hồ Ross và Hồ Chelan. Nơi đây có rất nhiều sông băng, và hoạt động phổ biến là đi bộ và leo núi Cascade Pass, Mount Shuksan, Mount Triumph và đỉnh Eldorado.
Hồ Ross trong Vườn quốc gia Bắc Cascades
42- Vườn quốc gia Mount Rainier
Địa điểm: Bang Washington
Thành lập: 2 tháng 3 năm 1899
Diện tích: 235.625,00 mẫu Anh (953,5 km2)
Mount Rainier – Núi Rainier là một ngọn núi lửa đang hoạt động, là đỉnh núi nổi bật nhất trong dãy Cascades. Nó được bao phủ bởi 26 sông băng như Carbon Glacier, Emmons Glacier là các sông băng lớn nhất ở lục địa Hoa Kỳ. Ngọn núi này phổ biến cho việc leo núi. Hơn một nửa diện tích của vườn quốc gia này được bao phủ bởi núi cao và các khu rừng núi cao. Thiên đường nằm ở trên sườn núi phía nam là một trong những nơi nhiều tuyết rơi nhất trên thế giới, Longmire là điểm bắt đầu của con đường mòn du lịch dài 93 km Wonderland bao quanh núi.
Núi Rainier trong vườn quốc gia Rainier
43- Vườn quốc gia Mesa Verde
Địa điểm: Bang Colorado
Thành lập: 29 tháng 6 năm 1906
Diện tích: 52.121,93 mẫu Anh (210,9 km2)
Mesa Verde là khu vực khảo cổ lớn nhất tại Hoa Kỳ, có diện tích 81,4 dặm vuông (211 km 2), gần Four Corners. Với rất nhiều tàn tích là những ngôi nhà và làng từng là nơi tập trung lâu đời của nền văn minh Pueblo kéo dài 900 năm (từ năm 450 đến năm 1300). Được xây dựng từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 12, công viên khảo cổ này có đến 4.400 địa điểm khảo cổ học, bao gồm những ngôi làng xây dựng trên đỉnh Mesa và những ngôi nhà được xây dựng bằng đá trong các vách đá với khoảng 600 ngôi nhà, trong đó có cả vách đá Palace, vách đá lớn nhất Bắc Mỹ. Có những ngôi nhà được xây thành nhiều tầng, có ban công, và có cả quảng trường với các đoạn đường hầm, hệ thống dẫn nước.
Các địa điểm khảo cổ đặc biệt của Mesa Verde là dẫn chứng của một nền văn hóa bộ tộc da đỏ cổ xưa ở Bắc Mỹ, thể hiện cuộc sống cổ xưa của tổ tiên những người Pueblo phía Tây Nam Hoa Kỳ. UNESCO đã công nhận Mesa Verde là di sản thế giới vào năm 1978. Nước cho sinh hoạt và nông nghiệp của tổ tiên người Pueblo cổ đại được cung cấp bởi những cơn mưa mùa hè, mùa đông có tuyết rơi và thấm vào các suối nước gần các làng Mesa Verde.
Các làng tại độ cao 7.000 feet (2.100 m) có khí hậu mát mẻ hơn, rất lý tưởng cho nông nghiệp, tuy nhiên nhiệt độ thấp làm giảm lượng nước cần thiết cho nông nghiệp. Các ngôi nhà trong vách đá được xây dựng để lợi dụng nguồn năng lượng mặt trời. Góc của mặt trời chiếu ít ỏi trong mùa đông chiếu vào những ngôi nhà vách đá, gió ấm áp thổi từ thung lũng, và nhiệt độ không khí là 10-20 độ C trong hốc hẻm núi, ấm hơn ở phía trên. Vào mùa hè, với ánh nắng mặt trời nhiều, các ngôi làng đã được bảo vệ khỏi ánh sáng trực tiếp từ mặt trời trong những ngôi nhà vách đá cao.
Năm 1300, hạn hán kéo dài đã gây ra sự sụp đổ của nền văn minh Pueblo và khu vực Mesa Verde đã bị bỏ rơi. Những người sống sót tại Mesa Verde đã lui về phía nam và phía đông.
Di tích các căn nhà cổ của người Pueblo trong Vườn quốc gia Mesa Verde.
44- Vườn quốc gia Olympic
Địa điểm: Bang Washington
Thành lập: 29 tháng 6 năm 1938
Diện tích: 922.650,86 mẫu Anh (3.733,8 km2)
Nằm trên bán đảo Olympic, phạm vi vườn quốc gia Olympic trải dài từ bờ biển Thái Bình Dương với vùng thuỷ triều và rừng nhiệt đới ôn đới đến núi Olympus. Dãy núi Olympic đóng băng quanh năm trừ vùng rừng mưa Hoh và rừng mưa Quinault là những khu vực ẩm ướt nhất của lục địa Mỹ.
Phần ven biển của vườn quốc gia Olympic là một khu vực gồ ghề cùng những bãi cát và một dải rừng liền kề. Vườn quốc gia dài tới 60 dặm (97 km) nhưng chỉ rộng vài dặm, với các cộng đồng bản địa tại các cửa của hai con sông. Đó là người Hoh tại sông Hoh và tại thị trấn La Push ở cửa sông Quileute là người Quileute.
Bãi biển trải dài không bị gián đoạn với các vùng hoang dã khác nhau, mỗi vùng dài từ 10 đến 20 dặm (16 đến 32 km). Trong khi một số bãi biển là khu vực bãi cát, thì tại các vùng hoang dã khác được bao phủ bởi đá lớn. Rừng phát triển quá mức rậm rạp, thủy triều và thời tiết mưa mù sương khiến việc đi bộ tại đây tương đối khó khăn. Các dải ven biển dễ dàng tiếp cận hơn so với khu vực bên trong vườn quốc gia, do địa hình khó khăn, rất ít du khách dám mạo hiểm vượt ra xa khoảng cách của một ngày đi bộ đường dài.
Khu vực phổ biến nhất của du khách khi tới đây là dải ven biển dài 9 dặm (14 km) có tên là Ozette Loop. Dịch vụ tại đây có một chương trình đăng ký và đặt phòng. Từ hồ Ozette, đi bộ đường dài khoảng 3 dặm (4,8 km) theo đường mòn là một con đường nguyên thủy ven biển qua những rừng tuyết tùng và vùng đầm lầy. Đến khu vực ven biển có những con đường mòn cho du khách khi thủy triều lên cao dài 3 km. Đoạn đường thứ ba dài 3 dặm để tạo thành vòng lặp của con đường đi bộ.
Đường mòn Cape Alava Loop trong vườn quốc gia Olympic
45- Vườn quốc gia Petrified Forest
Địa điểm: Bang Arizona
Thành lập: 9 tháng 12 năm 1962
Diện tích: 93.532,57 mẫu Anh (378,5 km2)
Vườn quốc gia Petrified Forest (Rừng hóa đá) là một phần của kiến tạo Chinle có một số lượng lớn gỗ hóa thạch có niên đại 225 triệu năm tuổi. Vườn quốc gia này được đặt tên theo các trầm tích lớn gỗ hóa thạch Khu vực xung quanh Painted Desert (sa mạc hội họa) đã bị xói mòn đỏ hung của đá núi lửa bentonite. Ngoài ra còn có hóa thạch khủng long và hơn 350 địa điểm khảo cổ văn hóa người Mỹ bản địa.
Khoảng 600.000 người ghé thăm vườn quốc gia này mỗi năm và tham gia vào các hoạt động bao gồm tham quan, chụp ảnh, đi bộ đường dài, và du lich ba lô. Vườn quốc gia Rừng hóa đá được biết đến nổi tiếng với các cây hóa thạch, đặc biệt là cây đổ đã sống vào cuối kỷ Triat, khoảng 225 triệu năm trước. Bắt đầu từ khoảng 60 triệu năm trước đây, cao nguyên Colorado, trong đó vườn quốc gia này, đã được đẩy lên do lực kiến tạo mảng và tiếp xúc xói mòn tăng lên.
Ngoài các khúc gỗ hóa thạch, hóa thạch được tìm thấy trong vườn quốc gia này cũng gồm có dương xỉ Trias muộn, Cycadophyta, ginkgo, và nhiều loại thực vật cũng như các động vật bò sát khổng lồ được gọi là phytosaur, động vật lưỡng cư lớn, và khủng long thời kỳ đầu. Các nhà cổ sinh vật học đã tiến hành khai quật và nghiên cứu hóa thạch của vườn quốc gia này kể từ đầu thế kỷ 20.
Các khúc cây hóa thạch trong Vườn quốc gia Petrified Forest